Ballade no.2 của Frederic Chopin lấy cảm hứng từ truyền thuyết Ba Lan 

Annie Nguyen

|

9:10 10/04/2024

Share

artLIVE – Bản ballade no.2 của Frederic Chopin được cho rằng đã lấy cảm hứng từ bài thơ của Adam Mickiewicz dựa trên truyền thuyết Ba Lan về Świtezianka.

Những bản ballade của Chopin được nhận xét rằng là các tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp sáng tác nhà soạn nhạc. Quê hương Ba Lan hay những truyền thuyết dân gian, đôi khi là những vần thơ của thi sĩ Adam Mickiewicz đã trở thành nguồn cảm hứng giúp ông hoàn thiện những tác phẩm để đời. 

ballade_no.2_cua_frederic_chopin
Bản ballade no.2 của Frederic Chopin được cho rằng lấy cảm hứng từ bài thơ của Adam Mickiewicz. Ảnh: musescore.com. 

Đôi nét về nhà soạn nhạc Frederic Chopin

Frederic Chopin sinh ngày 1 tháng 3 năm 1810, mất ngày 17 tháng 10 năm 1849, là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Chất thơ thiên tài trong âm nhạc cùng kỹ thuật không một ai đương thời có thể sánh bằng đã giúp ông nổi tiếng trên toàn thế giới, trở thành một trong những nhà soạn nhạc tiên phong trong giai đoạn này. 

chan_dung_nha_soan_nhac_frederic_chopin
Frederic Chopin là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan. Ảnh: vi.wikipedia.org. 

Sớm nổi tiếng là thần đồng, ông hoàn thành việc đào tạo âm nhạc trước khi rời khỏi quê hương Ba Lan vào năm 20 tuổi. Đến Paris, Pháp ở tuổi 21, ông đã tham gia công diễn hơn 30 buổi hòa nhạc trong thời gian 18 năm. Nam nhạc sĩ chủ yếu kiếm sống bằng việc bán các sáng tác và dạy học.

Những năm 1838 – 1839, đây chính là một trong những giai đoạn rực rỡ nhất trong sự nghiệp sáng tác của Chopin. Suốt hầu hết cuộc đời mình, sức khỏe của ông đều không được ổn định. Ông qua đời ở Paris, Pháp vào tháng 10 năm 1849 ở tuổi 39, với nhiều khả năng là do biến chứng của bệnh viêm màng ngoài tim (pericarditis) do bệnh lao phổi, vì nơi ông làm việc đông người và nhiều khói bụi.

Theo một số thống kê, nhà soạn nhạc đã sáng tác tổng cộng 244 nhạc phẩm. Tất cả các sáng tác của ông đều có dương cầm, trong đó hầu hết viết cho độc tấu piano, một vài tác phẩm nhạc thính phòng và 19 bài hát có lời bằng tiếng Ba Lan. 

Ông cũng đồng thời “định nghĩa” lại khái niệm ballade trong âm nhạc. Những tác phẩm dương cầm của Chopin bao gồm các bản mazurka, waltz, nocturne, polonaise, étude, impromptu, scherzo, prelude và sonata, Dân ca Ba Lan, nhạc cổ điển truyền thống của J. S. Bach, Mozart, và Schubert, và bầu không khí của các cuộc họp mặt nghệ sĩ ở Paris, Pháp đã ảnh hưởng nhiều đến phong cách sáng tác của riêng ông. Có thể nói, Frederic Chopin trở thành niềm cảm hứng lớn cho nhiều nghệ sĩ sau giai đoạn hậu Lãng mạn. 

Mang thuật ngữ ‘ballade’ vào âm nhạc 

Thuật ngữ “ballade” thường được gắn liền với thơ ca Pháp vào những năm 1400. Mãi đến thế kỷ XIX, “ballade” mới dần trở nên đa dạng hơn, không còn hiện diện như một phương thức để kể chuyện của những nhà thơ nữa. Thuật ngữ âm nhạc “ballade” gắn liền với tên tuổi của nhà soạn nhạc Frederic Chopin, những tác phẩm ballade của ông được chơi thường xuyên trong các buổi hòa nhạc trên khắp thế giới.

Sau khi rời quê hương Ba Lan, Frederic Chopin sáng tác bốn bản ballade. Trình tự tường thuật của các bản nhạc này không tuân theo bất kỳ hình thức cụ thể nào. 

Theo một số nhận định, các tác phẩm ballade của Chopin là âm nhạc thuần túy ở dạng hay nhất mà không có bất kỳ lời kể hay gợi ý nào. Dù cho ông vẫn lấy cảm hứng chủ đề từ những bài thơ của Adam Mickiewicz hay các truyền thuyết dân gian Ba Lan, nhưng thứ nhà soạn mong muốn là thính giả có thể dõi theo “câu chuyện” thông qua những nốt ký âm mà ông đã sáng tạo nên.

Chính vì thế, mọi phân tích về nội dung của các tác phẩm ballade này chỉ nên mang tính chất gợi ý. Những sáng tác ballade của Chopin đều mang một quy mô lớn, kéo dài từ 8 đến 12 phút, nhịp ba, 6/4 hoặc 6/8, có chủ đề thơ, kịch. 

Trong các bản ballade của ông có nhiều hình thức sonata, rondo cổ điển, những biến thể trong hình thức đã được sửa đổi, mang tính linh hoạt đầy táo bạo. Các bản ballade của Chopin kết hợp nhiều hình thức truyền thống và cách thể hiện sáng tạo nhưng vẫn mang tính chất cổ điển và hàn lâm. 

ballade_no.2_cua_frederic_chopin
Những tác phẩm ballade của ông được chơi thường xuyên nhất trong các buổi hòa nhạc trên khắp thế giới. Ảnh: musescore.com. 

Bản ballade no.2 và câu chuyện đầy chất thơ của Adam Mickiewicz

Bản ballade thứ hai của Chopin được xác nhận là lấy cảm hứng từ sự câu chuyện đầy chất thơ của nhà thơ Adam Mickiewicz, dựa trên truyền thuyết Ba Lan về Świtezianka, hay The Nixie

Świtezianka kể câu chuyện tình yêu của một chàng trai trẻ và một nữ thần nước và cách nữ thần biến thành một thiếu nữ xinh đẹp để thử lòng người tình. Sau khi biết tình nhân của mình không hề chung thủy, nữ thần đã trả thù bằng cách “nuốt chửng” anh vào lòng Hồ Świtez.

ballade_no.2_cua_frederic_chopin
Świtezianka kể câu chuyện tình yêu của một chàng trai trẻ và một nữ thần nước và cách nữ thần biến thành một thiếu nữ xinh đẹp để thử lòng người tình. Ảnh: medium.com. 

Bản ballade được sáng tác từ năm 1836 đến năm 1839 tại Nohant, Pháp và đảo Majorca ở Tây Ban Nha trong thời gian Chopin ở bên George Sand – một nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp.

“Who is the lady so comely and young

And who is the maid at his side

Who walk by the Switez blue waters, among

The moonbeams that shine on its tide?”

-Świtezianka, Adam Mickiewicz. 

Dáng hình trẻ trung và duyên dáng đó là ai

Cô gái sánh vai bên cạnh chàng là ai?

Ai đang cùng nhau ngắm nhìn dòng Switez xanh thẳm?

Để ánh trăng rọi trên đầu ngọn sóng xa xăm. 

Tạm dịch

Bản ballade bắt đầu một cách thanh thản và yên bình ở phím Fa trưởng bằng một nốt nhạc chủ đạo lặp đi lặp lại, sau đó là một giai điệu đầy chất thơ, được gọi là chủ đề. Nhịp Iambic được duy trì xuyên suốt phần đầu tiên, có nhịp độ khá nhanh, khơi gợi trong tâm trí người nghe một cảm giác đồng quê và lãng mạn, mô tả cuộc gặp gỡ tình yêu của chàng trai trẻ và nữ thần nước (khi còn là thiếu nữ) ở Świtezianka.

ballade_no.2_cua_frederic_chopin
Bản ballade bắt đầu một cách thanh thản và yên bình ở phím Fa trưởng bằng một nốt nhạc chủ đạo lặp đi lặp lại. Ảnh: medium.com. 

Sau khi phần mở đầu kết thúc nhẹ nhàng, một sự thay đổi tâm trạng xuất hiện đột ngột, đầy kịch tính từ bình lặng và yên bình sang bạo lực và giông bão. Phần giai điệu thể hiện sự biến đổi  từ một thiếu nữ tốt bụng và duyên dáng trở thành một nữ thần giận dữ, đầy hoang dã đang cố gắng hết sức để săn lùng người tình. 

Ngay sau đó, giai điệu chuyển sang ở ô nhịp 63. Độ căng, âm lượng và cường độ hòa âm tăng dần cho đến khi đạt đến điểm cao nhất, sau đó giảm dần xuống gam Fa trưởng thanh thản ban đầu.

Sau đó, âm thanh sẽ được điều chỉnh, đạt đến hợp âm giảm dần ở ô nhịp 96 và chuyển sang Rê giáng trưởng trong ba ô nhịp sau đó. Phần giữa chủ yếu được hình thành bởi sự biến đổi của các hòa âm khác nhau. 

Âm thanh đột ngột giảm xuống như mô tả người đàn ông “bị bỏ lại trên bờ một mình” khi biến thể đầu tiên quay trở lại ở cung Si trưởng và điều chỉnh thành Đô trưởng và Fa trưởng. Lần này, giai điệu được chơi ở cung Sol thứ, rồi quay trở lại chủ đề chính ở cung Rê thứ (bậc 141).

Sau đó, từ cung Rê thứ, giai điệu nhanh chóng chuyển trở lại La thứ ở ô nhịp 149. Ở ô nhịp 157, âm nhạc chuẩn bị cho coda (phần kết thúc) với các nốt kép rung ở bên phải đi kèm với biến thể thứ hai, một lần nữa được chơi ở quãng tám lặp lại nhiều lần. 

ballade_no.2_cua_frederic_chopin
Bản nhạc được kết thúc bằng cách đột ngột dừng nhạc sau đoạn nhạc thứ bảy. Ảnh: medium.com. 

Phần coda, cung La thứ, bao gồm sự hòa quyện giữa kỹ thuật điêu luyện và hình thức âm nhạc được coi là cao trào của toàn bộ bản ballade. Giai điệu âm trầm đã góp phần vào khía cạnh kỹ thuật. Bản nhạc được kết thúc bằng cách đột ngột dừng nhạc sau đoạn nhạc thứ bảy. 

Tham khảo

medium.com 

ourchopin.com